30+ Mẫu Tượng Phật Di Lặc Bằng Bột Đá Đẹp Hoan Hỉ

Tôn giả Xá Lợi Phất (Sàriputa) và 16 phẩm hạnh cao quý của Ngài

Ý nghĩa Bông hồng cài áo trong ngày lễ Vu Lan

Tịnh Độ Tông: Sơ lược về Pháp Môn Tịnh Độ

Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử: Lược sử hình thành và phát triển

Tượng Kim Cang Tát Đỏa Bồ Tát: Ý nghĩa và thờ cúng

Tứ Đại Thiên Vương hộ trì Phật giáo là ai?

Tỉnh thức là gì? Sống tỉnh thức có lợi ích gì?

Bát Chánh Đạo: 8 con đường chân chính chấm dứt khổ đau

Kinh Pháp Cú là gì? Ý nghĩa và lợi ích trì tụng Kinh Pháp Cú

Tìm hiểu về các tông phái Phật giáo tại Việt Nam

Phật giáo được truyền bá tại Việt Nam qua 2 con đường chính là truyền bá thẳng bởi các nhà sư Ấn Độ vào Việt Nam và truyền bá từ tông phái Phật giáo Trung Hoa sang. Qua nhiều năm phát triển, cùng với sự phát triển, du nhập, giao thoa về văn hóa đã hình thành nên rất nhiều tông phái Phật giáo khác nhau. Dưới đây là một số các tông phái Phật giáo tại Việt Nam phổ biến, được thừa nhận chính thức.

Một số tông pháp Phật giáo tại Việt Nam

Đạo Phật có lịch sử phát triển hơn 2.500, được cho là bắt nguồn từ Ấn Độ và lan tỏa ra khắp các quốc gia trên thế giới. Chính vì thế, sự hình thành nên các tông phái, sự khác nhau trong cách tu học để phù hợp với mỗi thời điểm, mỗi xã hội là hoàn toàn hợp lý.

Ba nhánh chính của Phật Giáo bao gồm Phật giáo Nguyên Thủy, Phật giáo Đại Thừa và Kim Cương Thừa. Ở Việt Nam, Phật giáo Đại Thừa là trường phái chính, tông phái phật giáo phổ biến nhất là Tịnh Độ Tông.

Ngoài ra, tại Việt Nam có rất nhiều tông phái Phật giáo có thể kể đến như:

1. Phật giáo Nguyên Thủy

Phật giáo Nguyên Thủy còn được gọi là Phật giáo Nam Tông, Phật giáo Tiểu Thừa để phân biệt với trường phái Phật Giáo Đại Thừa. Phật giáo Nguyên Thủy là cách gọi cho các tư tưởng Phật giáo thời kỳ sơ khai, từ khi thái tử Tất Đạt Đa giác ngộ hoàn toàn, trở thành Phật và sáng lập Phật giáo đến trước Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo ở thành phố Vaisili lần thứ hai.

Trong Phật giáo Nguyên Thủy, A La Hán là Thánh quả cao nhất, mục tiêu tối hậu là Niết Bàn, trí tuệ là đệ nhất. Kinh điển được viết bằng Pali ngữ, được đánh giá là mang tính bảo thủ, do đòi hỏi phải tuân theo nhiều luật tắc.

Phật giáo Nguyên Thủy còn được gọi là Phật giáo Tiểu Thừa
Phật giáo Nguyên Thủy còn được gọi là Phật giáo Tiểu Thừa

Phật giáo Nguyên Thủy vô cùng phổ biến ở các quốc gia như Thái Lan, Lào, Campuchia, Myanmar… nhưng ít phổ biến ở Việt Nam bằng Phật giáo Đại Thừa. Phật giáo nguyên thủy hay phật giáo Tiểu Thừa kế thừa những lời dạy cơ bản của Đức Phật, xem niềm tin vào các giáo lý, lời dạy của Đức Phật là công cụ giúp con người hiểu được chân lý thông qua các trải nghiệm của bản thân.

Phật giáo Nguyên Thủy sử dụng các văn bản kinh điển tiếng Pali, là ngôn ngữ phổ biến ở thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Bản kinh Tạng đầu tiên được soạn thảo bởi nhà sư ở Lanka, được gọi là kinh Pali, sau được dịch sang nhiều ngôn ngữ khác nhau. Phương tiện để được giác ngộ theo Phật giáo Nguyên Thủy là thiền Minh sát hoặc Thiền Vipassana.

Tại Việt Nam, tông phái này do Hòa thượng Hộ Tông, tục danh Lê Văn Giảng lập nên tại làng Tân An, Tân Châu, Châu Đốc lập ra. Ngài phát tâm tìm đạo năm 1925, đến năm 1936 thì quyết tâm thực hành Lục Độ Ba La Mật. Ngài xây dựng trường học để dạy tiếng Pali, dựng chùa ở Campuchia để Việt Kiều có nơi thọ Bát quán trai.

Đến năm 1939, Hòa thượng Hộ Tông về Tịnh Xá ở Gò Dưa (Thủ Đức) mở đạo, năm 1949 xây chùa Kỳ Viên Tự tại 610 đường Nguyễn Đình Chiểu, Q.3, TP.HCm. Đến năm 1950, chùa được đặt tên là Jetavana Vihara Kỳ Viên Tự, chánh điện chùa có tôn trí Xá Lợi Phật do Đại Đức Narada tặng. Như vậy, giáo phái Phật giáo nguyên Thủy tại Việt Nam là có nguồn gốc từ Campuchia truyền sang.

2. Hệ phái Khất Sĩ

Trên nền tảng của Phật giáo Nguyên Thủy, Phật giáo được chia ra thành Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền hay còn gọi là Tiểu Thừa và Đại Thừa. Trong khi Phật giáo Bắc Truyền thì thiên về lối phát triển hòa nhập, không câu nệ thì Phật giáo Nam truyền có tính bảo thủ, tuân theo lời Phật dạy một cách kính cẩn, trọng hình thức.

Hệ phái Phật giáo Khất Sĩ là tông phái được thành lập tại Việt Nam và chỉ có tại Việt Nam, là hình thức dung hòa giữa hai tông phái Nam Tông và Bắc Tông. Hệ phái được thành lập bởi tổ sư Minh Đăng Quang vào năm 1947, mang chí nguyện “Nối truyền Thích Ca Chánh Pháp”, nổi bật với hình ảnh du hành, khất thực kết hợp với tư tưởng thời Đức Phật còn tại thế.

Sau nhiều năm tu học, nghiên cứu ba tạng kinh điển của phái Nam tông và Bắc tông một cách thấu đáo, tổ sư Minh Đăng Quang đã chắt lọc các tư tưởng cốt lõi về giáo pháp và rút ra phương pháp tu tập riêng là tư tưởng “Nối truyền Thích Ca chánh pháp – Đạo phật Khất Sĩ Việt Nam. Ngài nguyện thọ giới Tỳ-kheo, giữ gìn thực hành 250 giới cấm theo giới luật Phật giáo Bắc Tông.

Tôn chỉ của giáo phái là người du tăng khất sĩ mặc áo vàng choàng một bên, trong người không giữ tiền bạt, tay bưng bỉnh bát, đi khắp đường đất nước hành đạo, hóa duyên. Năm 1966, Giáo Hội tăng Già Khất Sĩ Việt Nam được thành lập, pháp viện ở ngã ba Cát Lái, Biên Hòa. Giáo phái mặc y, du hóa như Nam Tông, tăng ni ăn chay. Tổ Sư Minh Đăng đã để lại các giáo lý như Bồ Tát Giáo, bộ kinh Chơn Lý gồm 69 bài giảng về kinh, luật, luận.

3. Thiền Tông

Thiền Tông là tông phái Phật giáo Đại Thừa, là tông phái có khởi nguồn từ Ấn Độ, được truyền đến đời thứ 28 Bồ Đề Đạt ma truyền thừa từ đệ nhất Tổ Ca Diếp. Có tài liệu ghi lại, Bồ Đề Đạt Ma sang Trung Quốc vào đầu thế kỷ thứ 6, được xem là Sơ tổ của Thiền Tông. Thiền Tông được truyền qua Việt Nam từ Trung Quốc nhưng có nguồn gốc xuất phát từ Ấn Độ.

Thiền Tông được xem là pháp tu cao siêu, được hiểu là Thiền trong tông môn. Có rất nhiều Thiền sư đã sang Việt Nam truyền bá Thiền Tông, trong đó có đệ tử của đệ tam Tổ Tăng Xán là Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Vào năm 594 TCN, thành lập phái thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi, truyền được 19 đời. Khoảng năm 824 TCN, Vô Ngôn Thông, đệ tử của Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải cũng truyền bá kim chỉ nam của Lục sư tổ Huệ Năng, thành lập phái thiền Vô Ngôn Thông.

Đến đời vua Trần Nhân Tông, vua đã tham vấn thiền bởi Tuệ Trung Thượng Sĩ và được đốn ngộ. Sau này vua nhường ngôi cho con, sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Tuy nhiên, đến ngày nay, các phương pháp tu tập của Thiền Tông tại Việt Nam không còn phổ biến, thay vào đó là sự phát triển của Tịnh độ Tông và Mật Tông.

Thiền Tông được coi là con đường tu tập ngắn nhất nhưng cũng là cảnh giới khó nhất. Quan điểm của Thiền Tông là nhấn mạnh sự trở về với tự nhiên, bỏ qua các bài luận khó hiểu, các nghi thức rườm ra. Là sự tổng hợp độc đáo giữa 2 giáo lý là Duy thức và Trung Quán. Thiền Tông còn được gọi là Vô Thượng Thiền, là pháp tu cao siêu có giới hạn cực tinh nghiêm, không phải ai cũng có thể tập luyện được.

Tại nước ngoài có Thiền Sư Nhất Hạnh vô cùng nổi tiếng, thiền của Ngài thuộc Như Lai Thiền. Ông sinh ra ở Thừa Thiên Huế, xuất gia theo Thiền Tông vào năm 16 tuổi. Từ năm 1960, ông bày tỏ thái độ phản đối chiến tranh và bị lưu đày khỏi lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Ông sống lưu vong tại Pháp hơn 40 năm, là người có ảnh hưởng đến sự phát triển của Phật giáo Phương Tây.

Trong nước có Thiền sư Thanh Từ, trước ở trong đoàn Như Lai sứ giả thuộc giáo hội Tăng già Nam Việt, sau chuyên giảng dạy về thiền. Ngài lập một số tu viện như Linh Chiếu, Chơn Không, Thường Chiếu… Được biết, khác với thiền sư Nhất Hạnh, thiền của Ngài là Tổ sư Thiền.

4. Tịnh Độ Tông – tông phái Phật giáo tại Việt Nam

Như đã đề cập, Tịnh Độ Tông là một trong những tông phái Phật giáo phổ biến nhất hiện nay, cũng là tông phái Phật giáo tại Việt Nam được nhiều người biết đến. Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật giáo, thuộc về Đại Thừa, đặc điểm là dễ tu, dễ chứng, thích hợp với đa số đại chúng. Tịnh độ tông dựa trên đại nguyện đầu của Phật A Di Đà là tạo ra nghiệp lành là cõi Tây phương Cực Lạc. Người tu Tịnh Độ Tông sẽ phát nguyện vãng sinh về cõi này, tiếp tục nỗ lực tu hành để được giác ngộ.

Tịnh độ tông cũng là tông phái Phật giáo tại Việt Nam được nhiều người biết đến
Chùa Hoằng Pháp là ngôi chùa điển hình theo tông phái Tịnh Độ Tông

Tịnh độ tông đặc biệt phổ biến tại Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam. Phép tu chủ yếu là niệm A Di Đà, quán tưởng Cực Lạc. Các kinh điển riêng của pháp môn này gồm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác kinh, Đại Phật A Di Đà kinh, Quán Vô Lượng Thọ kinh, Vô Lượng Thọ kinh, Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ kinh, Phật Thuyết A Di Đà kinh, Tịnh Độ Vãng Sinh luận do Bồ tát Thế Thân trước tác, Cổ Âm Thanh Tán Đà La Ni kinh.

Tại Việt Nam, Tịnh độ Tông có mặt lần đầu tiên bởi cư sĩ Minh Trí, tổ đình đặt tại Minh Hưng Tự, tại 101 Lý Chiêu Hoàng, Q.6, TP.HCM. Minh Hưng Tự được xây cất năm 1934, hội có tên là “Tịnh độ Cư sĩ Phật Hội Việt Nam”, chọn phương pháp Phước Huệ song tu và pháp môn niệm Phật làm căn bản.

Tịnh độ tông ngày nay có hệ phái Non Bồng, đây là hệ phái lớn có nhiều chùa ở khu vực miền Nam và miền Trung Việt Nam. Người tu theo pháp môn này chỉ cần niệm Phật đúng cách, thường xuyên làm việc thiện, tích lũy công đức để cầu vãng sinh về cõi Tây Phương Cực Lạc. Có thể nói, đây là một trong những khuynh hướng tín ngưỡng lớn, dễ tu tập, dễ thực hành nhất ở nước ta hiện nay.

5. Mật Tông

Mật Tông cũng thuộc Phật giáo Đại Thừa, xuất hiện vào Hậu kỳ Đại Thừa vào khoảng thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 13. Còn gọi là Kim Cương Danh tông, Tỳ Lô Giá Na Tông, Chân Ngôn Tông, lấy Kim Cương Đảnh là Kinh Tạng, luận Thích Ma Ha làm luận tạng và kinh Tô Bà Hô là Luật Tạng.

Tên gọi Mật Tông là để hiển bày giáo nghĩa sâu xa, bí mật. Mật Tông bắt nguồn từ Ấn Độ, sau do ba vị đại học giả là Kim Cương Trí, Thiện Vô Úy, Bất Không đem từ Ấn Độ truyền sang Trung Hoa. Mật tông được truyền vào Tây Tạng từ thế kỷ thứ 8 về sau, trở thành Lạt Ma giáo. Tông phái Phật giáo này được chia thành 2 phái là Kim Cương Thừa và Chân Ngôn Thừa.

Mật Tông có Tam Mật, tôn Đại Nhật Như Lai hay Tỳ Lô Giá Na Phật làm giáo chủ, sử dụng những phép tu tụng niệm các mật chú để đạt giác ngộ. Mật Tông truyền vào Việt Nam rất sớm, từ khoảng thế kỷ thứ 6, một người Ấn Độ là Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã dịch kinh Đại thừa Phương Quảng Tổng Trì tại chùa Pháp Vân Việt Nam. Bộ kinh này của Mật giáo, có liên hệ rất nhiều đến thiền.

Tại Việt Nam, Mật Tông cũng rất thịnh hành vào thời Đinh và Tiền Lê. Người ta phát hiện được nhiều trụ đá điêu khắc bản kinh Phật đỉnh Tôn thắng Đà La Ni (bản kinh phổ biến của Mật giáo) được dựng năm 973 thời Đinh, 995 thời Lê Đại Hành… Năm 1318, vua Anh Tông đã mời một Tăng sĩ tên Ban Để Đa Ô Sa Thất Lợi ở Ấn Độ đến dịch một bộ kinh Mật giáo là Bạch Tán Thần chú kinh.

Ở khu vực phía Nam, Hòa Thượng Nhẫn Tế đã sang Ấn Độ vào năm 1935 để chiêm bái, học Phật, sang Nepal nhận được Xá lợi Phật, sang Tây Tạng được Lạt ma Nhiếp chánh nhận là tu sĩ Tây Tạng, ban pháp danh và ngài đã đắc pháp Mật Tông Tây Tạng. Sau này, ngài về lại am thất của mình tại Bình Dương tu và truyền bá Mật Tông. Ngài viên tịch năm 1951, được Nhiếp chính quốc vương Tây Tạng ấn chứng là Lạt ma Việt Nam đầu tiên.

6. Phật giáo Hòa Hảo

Phật giáo Hòa Hảo là tông phái Phật Giáo tại Việt Nam được khai lập bởi Huỳnh Phú Sổ, tôn giáo lấy Đạo Phật làm nền tảng, kết hợp cùng các bài sấm kệ được Huỳnh Phú Sổ biên soạn. Năm 1999, Ban Tôn giáo của Chính phủ công nhận tổ chức và hoạt động của Ban đại diện Phật giáo Hòa Hảo với Quyết định số 21/QĐ/TGCP.

PGHH có truyền thống của Bửu Sơn Kỳ Hương, chuyên truyền bá Phật giáo trong giới nông dân, tu tại gia. PGHH không thờ cốt Phật, không cất chùa mới, chỉ cất Độc Giảng đường để các tín đồ đọc Sấm giảng vào ngày rằm, mồng một. Tín đồ của tông phái này cũng quy y tam bảo, ăn tứ trai, thập trai, trường trai, giữ gìn ngũ giới.

Trong nhà, tín đồ cũng thờ cúng ba ngôi hương án tại nhà gồm ngôi thứ nhất thờ Tam Bảo, ngôi thứ hai là bàn thờ thông thiên và ngôi thứ ba là bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ. Theo thống kê, PGHH có khoảng 390 Độc giảng đường với hơn 4 triệu tín đồ, đặc biệt phổ biến ở khu vực miền Nam.

Trên đây là một số tông phái Phật Giáo tại Việt Nam được nhiều người biết đến. Hy vọng những thông tin trên sẽ giúp bạn hiểu rõ nguồn gốc của các tông phái từ đó lựa chọn được tông phái, pháp môn tu tập phù hợp cho chính mình.

Có thể bạn quan tâm:

Cùng chuyên mục

Chùa, tịnh xá, thiền viện, tự viện, am khác nhau như thế nào

Chùa, Tịnh Xá, Thiền Viện, Tự Viện, Am khác nhau thế nào?

Chúng ta thường nghe đến các từ như chùa, tịnh xá, am, tự viện... Đây đều là những từ để chỉ cho nơi tu tập của cộng đồng tu sĩ...

Mẹ Cửu Thiên Huyền Nữ rất nổi danh trong hàng ngũ nữ tiên

Tượng Mẹ Cửu Thiên Huyền Nữ: Ý nghĩa và cách thờ cúng

Tượng mẹ Cửu Thiên Huyền Nữ được thờ vô cùng phổ biến, bà là thần độ mạng, đại diện cho chính nghĩa, công lý, luôn bảo vệ, chở che cho...

Tục thờ Ngũ Hành Nương Nương đã xuất hiện từ lâu và được lâu truyền rộng rãi tại Việt Nam

Tượng 5 Mẹ Ngũ Hành: Ý nghĩa và thờ cúng

Ngũ Hành Nương Nương hay 5 mẹ Ngũ Hành là 5 vị thần đại diện cho năm yếu tố Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Tục thờ Ngũ Hành Nương Nương...

Mẫu tượng 3 ông Phúc Lộc Thọ thích hợp cho người mệnh Mộc

Cách chọn tượng 3 ông Phúc Lộc Thọ hợp mệnh, tuổi

Tượng Tam Đa Phúc Lộc Thọ có ý nghĩa rất đặc biệt trong phong thủy, thể hiện mong cầu phước lộc, tài lộc và sức khỏe của con người. Vì...

Đại Thừa và Tiểu Thừa là hai tông phái Phật giáo lớn hiện nay

Sự khác nhau giữa Phật Giáo Đại Thừa và Tiểu Thừa

Trải qua hàng nghìn năm phát triển, Phật giáo đã trở thành một tôn giáo lớn và phân chia thành nhiều tông phái. Sự phân chia này xuất phát từ...

Ngày Phật Đản là ngày nào? Cách thờ Phật Đản tại gia

Ngày Phật Đản là một ngày đại lễ quan trọng nhất trong Phật Giáo, có nguồn gốc từ Ân Độ. Đây là ngày lễ kỷ niệm ngày sinh của Đức...

Ẩn